Sông Hồng (hay Hồng
Hà, còn có các tên gọi khác là sông Cái, sông Cả, sông
Thao, Nhị Hà, Nhĩ Hà) là con sông có tổng chiều dài là 1.149 km[1]
bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc chảy qua miền Bắc Việt Nam và đổ ra vịnh Bắc
Bộ, trên đất Việt Nam dài 556 km.[2] Đây là dòng sông quan trọng của
nền văn hóa lúa nước Việt Nam.
Nước Sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của Sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn/nǎm tức là gần 1,5 kg/m³ nước.
Sông Hồng góp phần quan trọng
trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng
thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc
2 tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể
cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.
Do lượng phù sa lớn mà lòng
sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường xuyên xảy ra, vì thế mà từ lâu 2
bên bờ sông người ta đã đắp lên những con đê to nhỏ để tránh lũ lụt ngăn nước.
--------------------------
Sông
Hồng giữ vị trí văn hóa, lịch sử, kinh tế quan trọng của cả vùng đồng bằng Bắc
Bộ Việt Nam. Nó tạo nên đồng bằng châu thổ sông Hồng và nền văn minh sông Hồng.
Sự kỳ lạ và huyền diệu của dòng sông này đã khiến người Việt từ thuở sơ khai
cho đến ngày nay phải cung kính gọi là sông Cái, là Mẹ của nền văn minh châu thổ
sông Hồng.
4.000 NĂM DẰNG DẶC NHỮNG DANH
XƯNG
Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi
Ai Lao, thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Khi nhập vào lãnh thổ Việt Nam, sông Hồng
chảy qua qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hà Nội,
Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định và Thái Bình rồi đổ ra biển qua 11 cửa sông.
Thủy trình của sông Hồng xuất
phát từ độ cao 1.776m so với mặt nước biển, khi nhập vào Việt Nam độ cao chỉ
còn 73m. Tổng chiều dài của sông Hồng 1.149km, trong đó phần chảy trên đất Việt
Nam là 556km. Lưu vực của sông Hồng rất lớn, phủ trên một diện tích xấp xỉ
145.000km2, kèm theo 2 phụ lưu chính là sông Đà (hữu ngạn) và sông Lô (tả ngạn).
Trước sự hùng vĩ của sông Hồng,
người Việt đã dùng những danh xưng cao quý nhất để gọi dòng sông này nhằm thể
hiện sự kính trọng và tôn quý như sông Cái (sông Mẹ), sông Cả (sông Lớn), rồi đồng
nhất sông Hồng với Mẫu Thoải của tín ngưỡng tứ phủ trong dân gian.
Nhưng không chỉ là sông To,
sông Lớn, sông Mẹ mà sông Hồng còn có rất nhiều tên khác. Trong ghi chép của lịch
sử và cả trong sử dụng của dân gian người ta đã nói đến những tên gọi khác nhau
của con sông này. Do tính chất quan trọng của sông Hồng trong đời sống cộng đồng
dân cư trong vùng, mỗi một khúc đoạn, lại được gọi bằng những tên khác nhau.
Tổng cộng, sông Hồng có hơn 10
danh xưng chính thức và nhiều danh xưng dùng trong dân gian. Theo sử sách ghi
chép, khi chảy vào Việt Nam, sông Hồng có các tên là sông Thao, sông Nhị, tức
Nhĩ Hà, sông Phú Lương, sông Bạch Hạc, sông Tam Đới, sông Đại Hoàng, sông Xích
Đằng (hay sông Đằng), sông Hoàng Giang, sông Lô (hay Lô Giang), sông Hồng (hay
Hồng Hà).
Hai tên gọi sông Phú Lương và
Lô Giang xuất hiện sớm hơn cả. Tên Phú Lương có từ thời Hai Bà Trưng (40 trong
Công nguyên) và tồn tại cho đến thời nhà Lý (năm 1010) vẫn được sử dụng. Còn
tên Lô Giang có từ thời nhà Trần và đã được chép lại trong "Đại Việt sử ký
toàn thư".
Sông Hồng còn có một tên gọi
dân gian là sông Cái. Khi thực dân pháp xâm lược nước
ta, con sông Cái này luôn “đỏ nặng phù sa” nên được người Pháp gọi là “Riviere
Rouge” (sông có màu nước đỏ) và tên gọi sông (màu) Hồng hay Hồng Hà bắt đầu được
sử dụng.
Có thể nhận định, tên gọi sông
Hồng hay Hồng Hà được dùng phổ biến hiện nay chính thức xuất hiện vào thế kỷ
19. Tuy nhiên, từ “Hồng - theo từ Hán Việt” trong danh xưng sông Hồng lại có
nghĩa “lớn, to lớn, rất lớn” tương tự từ “Cái” và từ “Cả” trong tiếng Việt.
So sánh trong từ vựng tiếng Việt
và Hán Việt, chúng ta thấy có “hồng phúc - phúc lớn”, “nạn đại hồng thủy - nạn
nước lớn”; “đường cái - đường lớn, ngón chân/tay cái - ngón chân/tay to nhất”;
rồi “đũa cả - đũa to, anh/chị cả - anh chị lớn nhất, vợ cả - vợ đầu tiên”...
Nhóm tên của sông Hồng như
sông Cái, sông Thao, sông Hồng đều mô tả tính chất, đặc điểm của dòng sông là
sông lớn, sông chính, con sông giữ vai trò chủ đạo ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.
Trong khi đó, danh xưng sông Nhĩ Hà lại mô tả đặc điểm nước sông chảy vòng
quanh như hình cái vành tai.
Trong khi đó, nhóm danh xưng Bạch
Hạc, Tam Đới, Xích Đằng và Đại Hoàng của sông Hồng lại được đặt để chỉ khu vực,
lãnh thổ mà sông Hồng chảy qua. Sông Bạch Hạc là vị trí sông Hồng hợp lưu với
sông Đà ỏ ngã ba Hạc (Việt Trì), sông Tam Đới là đoạn sông Hồng chảy qua châu
Tam Đới (Phong Châu, Phú Thọ).
Tương tự là đoạn chảy qua vùng
Đại Hoàng (Lý Nhân, Hà Nam) - quê hương của cặp nhân vật văn học điển hình là
Chí Phèo, Thị Nở trong truyện ngắn nổi tiếng nhất của Nam Cao. Sông Xích Đằng
là tên gọi khi sông chảy qua Đằng Châu (Khoái Châu, Hưng Yên).
Có thể thấy rằng, tên của sông
Hồng rất nhiều, có thể nói là nhiều nhất trong số các dòng sông ở Việt Nam nói
chung và miền Bắc nói riêng. Đó là điều hiển nhiên bởi số danh xưng đó tỉ lệ
thuận với mức độ tôn kính mà con người dành cho một dòng sông, một đấng thần
linh hay một vị đại anh hùng có công với nước, với dân.
CÔNG ĐỨC CỦA MẸ - SÔNG HỒNG
Ngay từ khi “nơi con sông Hồng
chảy vào đất Việt”, vốn là rãnh nước bé ở khe Lũng Pô, xã A Mú Sung, huyện Bát
Xát, Lào Cai, sông Hồng không chỉ cung cấp nước cho cuộc sống con người, cung cấp
tuyến đường giao thông mà còn cung cấp hạt phù sa để bồi đắp lên đồng bằng châu
thổ sông Hồng suốt hàng nghìn năm qua.
Hãy lượng hóa công trình đó bằng
con số: Mỗi năm sông Hồng cung cấp cho vùng châu thổ 112 tỉ m3 nước, trong đó
có 120 triệu tấn phù sa. Tổng diện tích đất của châu thổ đã được sông Hồng bồi
đắp là 1.479.416ha gồm 8 tỉnh và 4 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương,
Hưng Yên, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc.
Sông Hồng vẫn đang miệt mài mở
mang bờ cõi bằng việc lấn biến tại 11 cửa sông, với trung bình 300 mét mỗi năm.
Như vậy, cứ sau khoảng 200 năm, vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng lại tăng diện
tích thêm khoảng 115km2, tương đương 50% diện tích của huyện Hải Hậu (Nam Định).
Từ nền tảng châu thổ màu mỡ và
phì nhiêu đó, nền văn minh lúa nước đã được hình thành ở đồng bằng Bắc Bộ -
vùng đất trù phú do sông Hồng bồi đắp, cùng nguồn phù sa và nước dồi dào hàng
năm. Nền văn minh này còn được gọi là nền văn minh sông Hồng (xuất hiện từ
thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên đến thế kỷ 15).
Không chỉ có thế, sông Hồng
còn là cái nôi nuôi dưỡng nền văn hóa của Việt Nam và con sông Hồng cũng là nơi
bắt nguồn của lối sống định canh, định cư và khởi nguồn của nền văn hóa làng xã
đến bây giờ vẫn còn ảnh hưởng ở Việt Nam bất chấp mọi nỗ lực đồng hóa.
Khi di chuyển dọc theo thủy
trình hơn 500km của sông Hồng trên đất nước Việt Nam, chúng ta sẽ thấy ở hai
bên sông là tầng tầng lớp lớp di chỉ văn hóa - lịch sử - tín ngưỡng - chính trị,
từ thời An Dương Vương cho đến Hai Bà Trưng, rồi sau này là Thăng Long - Đông
Đô - Hà Nội, cùng các trấn Sơn Nam hạ. Sơn Nam hạ vốn là vựa lúa lớn nhất nước
đến trước khi có đồng bằng châu thổ sông Cửu Long ở phương Nam.
Cho đến tận bây giờ, sông Hồng
vẫn là mạch nguồn của dân tộc Việt Nam, tiếp tục bơm những dòng dinh dưỡng đỏ
tươi để đất đai châu thổ luôn màu mỡ tốt tươi, tiếp tục cung cấp nguồn nước tưới
tiêu, nước sinh hoạt để nuôi dưỡng hệ sinh thái ở châu thổ, trong đó có con người.
Chính vì thế, mọi biến động về
dòng chảy của sông Hồng đều được coi là vấn đề tối quan trọng bởi nó ảnh hưởng
tới cả hệ sinh thái và đời sống của hàng chục triệu người dân. Do đó, sông Hồng,
cho dù dưới danh xưng nào, ở thời đại nào, luôn luôn là dòng sông linh thiêng
trong tâm thức và đời sống vật chất của người Việt Nam, là dòng sông Mẹ lượng cả
bao dung với cả mảnh đất đã tạo nên đất nước Việt Nam!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét